TS Lê Xuân Nghĩa: Nhập khẩu vàng chính ngạch quá nhỏ, không có lý do để siết chặt như hiện nay

"Nhập khẩu vàng chính ngạch quá nhỏ, không có lý do để siết chặt như hiện nay"

Chia sẻ tại Diễn đàn “Thị trường vàng Việt Nam trong giai đoạn mới” do Báo Kinh tế Đô thị tổ chức chiều ngày 24/11, TS Lê Xuân Nghĩa đã có nhiều chia sẻ đáng chú ý về thị trường vàng.

Phát biểu tại hội thảo, TS Lê Xuân Nghĩa cho rằng cách quản lý thị trường vàng tại Việt Nam đã kéo dài nhiều thập kỷ, từ trước năm 1948, và đến nay vẫn tồn tại nhiều bất cập. Theo ông, sự “nhạy cảm” của mặt hàng vàng không nằm ở bản chất kinh tế mà chủ yếu xuất phát từ tư duy quản lý. “Đôi khi chúng ta nhìn vàng như thứ gì quá ghê gớm, trong khi bản thân vấn đề không phức tạp đến vậy”, ông nói.

Dẫn dữ liệu từ các tổ chức quốc tế và cơ quan quản lý, TS Nghĩa nhấn mạnh rằng lượng vàng nhập khẩu chính ngạch của Việt Nam hằng năm chỉ khoảng 5 tấn, tương đương hơn 5 tỷ USD, thấp hơn nhiều so với kim ngạch nhập khẩu của nhiều mặt hàng tiêu dùng. Ông so sánh: mỗi năm Việt Nam nhập khẩu 11 tỷ USD mỹ phẩm, gần 5 tỷ USD sữa và chế phẩm từ sữa. “Vậy tại sao nhập vàng lại bị coi là nghiêm trọng, trong khi mỹ phẩm hay sữa nhập gấp đôi, gấp ba lại ít ai nói đến?”, ông đặt vấn đề.

z7257632875111_de2fdc9b9a1805e67c1664713a12d2ed.jpg

Theo Chủ tịch Hội đồng Vàng Thế giới, khoảng 75% vàng tích trữ tại Việt Nam là vàng nhập lậu. Điều này cho thấy chính hạn chế trong cơ chế nhập khẩu chính thức đã đẩy thị trường vào tình trạng méo mó, chênh lệch giá và phát sinh buôn lậu.

TS Nghĩa nhấn mạnh, việc người dân giữ vàng là một hình thức tiết kiệm, phòng thân và hoàn toàn chính đáng. Việt Nam hiện ước tính có khoảng 500 tấn vàng trong dân con số không hề lớn so với các quốc gia khác “Chúng ta là một nước nghèo, người dân để dành được 500 tấn vàng là rất đáng quý. Đó là thói quen tốt, là ý thức tiết kiệm và phòng ngừa rủi ro, khi Nhà nước không thể hỗ trợ kịp thời trong các tình huống thiên tai, bệnh tật, biến cố”, ông Nghĩa nói.

Theo ông Nghĩa , nhiều luận điểm cho rằng người dân tích trữ vàng gây hại cho nền kinh tế là thiếu cơ sở. “Vàng trong dân cũng là một dạng dự trữ quốc gia. Tại sao lại coi đó là đầu cơ hay tiêu cực?” - ông Nghĩa nhấn mạnh.

Giải thích xu hướng giá vàng liên tục tăng trong nhiều năm, ông Nghĩa cho rằng, tổng lượng vàng khai thác hàng năm trên thế giới chỉ tăng từ 1,2-1,5%, trong khi cung tiền toàn cầu tăng 3,5% - 4,5%. “Tiền tăng nhanh hơn vàng thì vàng phải tăng giá, đó là quy luật. Người dân hiểu điều đó nên giữ vàng là chuyện bình thường”, chuyên gia nói.

Theo ông Nghĩa, không thể trách người dân hay yêu cầu họ “đừng mua vàng” bằng các khẩu hiệu như “tin vào ổn định” hay “tin vào kinh tế”. Điều đáng đặt câu hỏi là: tại sao người Việt phải mua vàng đắt hơn người Mỹ, người châu Âu trong khi thu nhập thấp hơn nhiều? “Vấn đề là tại sao vàng thế giới như thế, mà người Việt lại phải mua với giá cao hơn. Đó mới là câu hỏi thực sự”, ông nhấn mạnh.

“Cơ quan quản lý không nhập chính thức, thì người dân buộc phải mua vàng nhập lậu, mua hàng kém chuẩn. Đó là điều vô lý”

TS Lê Xuân Nghĩa cho rằng chính sự độc quyền trong nhập khẩu vàng miếng đã dẫn tới thị trường méo mó, người dân chịu thiệt. “Cơ quan quản lý không nhập chính thức, thì người dân buộc phải mua vàng nhập lậu, mua hàng kém chuẩn. Đó là điều vô lý.” Ông Nghĩa nhấn mạnh, quản lý thị trường không thể chỉ dựa trên tư duy “siết cho chặt” mà bỏ qua quyền lợi người dân.

Theo TS Lê Xuân Nghĩa, yêu cầu quan trọng nhất hiện nay là cần bỏ độc quyền xuất, nhập khẩu vàng miếng của ngân hàng thương mại. Đây là điểm mấu chốt để đảm bảo thị trường minh bạch, giá vàng trong nước tiệm cận thế giới, giảm buôn lậu và bảo vệ quyền lợi chính đáng của người dân.

z7257636442151_7a44e24ef20dca17eeaf1b402b8209dd.jpg

Theo ông, bên cạnh việc chấm dứt độc quyền xuất, nhập khẩu vàng miếng của ngân hàng thương mại, cần thực hiện ba thay đổi quan trọng:

Thứ nhất, bỏ độc quyền quản lý thị trường vàng của SJC.

Thứ hai, cho phép một số ngân hàng thương mại lớn được tham gia kinh doanh và sản xuất vàng miếng, đáp ứng trực tiếp nhu cầu vàng miếng trong dân.

Thứ ba, tham khảo mô hình Trung Quốc: trong 13 doanh nghiệp được cấp phép kinh doanh và dập vàng miếng, Trung Quốc cho phép 5 ngân hàng thương mại tham gia.

Các ngân hàng có lợi thế về thanh toán quốc tế, giao dịch ngoại thương, công nghệ và khả năng xử lý biến động giá theo giờ. “Họ có thông tin, có kỹ năng quản trị rủi ro, đủ điều kiện để tham gia thị trường vàng bài bản”, TS Nghĩa nhấn mạnh.

Ngoài ngân hàng, một số doanh nghiệp đủ năng lực, vốn điều lệ từ 1.000 tỷ đồng trở lên cũng có thể được cấp phép kinh doanh vàng miếng, song vẫn cần kiểm soát chặt chẽ.