Dòng tín dụng trực tiếp giữa ngân hàng và công ty chứng khoán
Mới đây, CTCP Chứng khoán VPS công bố kế hoạch vay tối đa 6.900 tỷ đồng từ Techcombank và 5.000 tỷ đồng từ Vietcombank để đầu tư kinh doanh trái phiếu Chính phủ, trái phiếu Chính phủ bảo lãnh hay các công cụ nợ khác của Chính phủ và trái phiếu chính quyền địa phương.
Thông thường, các trái phiếu này sau đó được công ty chứng khoán sử dụng làm tài sản thế chấp để tiếp tục vay vốn từ các ngân hàng khác nhằm bổ sung vốn kinh doanh, trong đó chủ yếu là cho vay đầu tư chứng khoán và ứng trước tiền bán chứng khoán.
Đây là công thức huy động vốn cho vay margin phổ biến của các công ty chứng khoán trong giai đoạn gần đây. Mô hình này góp phần đẩy dư nợ cho vay ký quỹ lên gần 400 nghìn tỷ đồng, theo dữ liệu báo cáo tài chính gần nhất của các công ty chứng khoán.
Công ty chứng khoán là nhóm khách hàng tổ chức có nhu cầu vốn lớn, sử dụng cho kinh doanh chứng khoán và quản lý dòng tiền. Tùy nhu cầu và chính sách tín dụng, ngân hàng cấp vốn dưới dạng hạn mức ngắn hạn quay vòng, các khoản vay từng lần hoặc hạn mức phục vụ thanh toán bù trừ. Tài sản bảo đảm, nếu được yêu cầu, thường là danh mục giấy tờ có giá như trái phiếu Chính phủ, tín phiếu và một số trái phiếu doanh nghiệp.
Các khoản cấp vốn này được ghi nhận tại chỉ tiêu dư nợ cho vay tổ chức kinh tế, khoản phải thu từ giao dịch mua bán lại giấy tờ có giá hoặc chứng khoán đầu tư khi ngân hàng nắm giữ trái phiếu do công ty chứng khoán phát hành.
Giao dịch repo giữa ngân hàng và công ty chứng khoán cũng là kênh cấp vốn có tài sản bảo đảm bằng giấy tờ có giá. Khi ngân hàng mua trái phiếu hoặc giấy tờ có giá do công ty chứng khoán phát hành để đầu tư, khoản tiền đó trở thành nguồn vốn hoạt động của công ty chứng khoán.
Sở hữu công ty chứng khoán và đòn bẩy mở rộng room margin
Khi ngân hàng nắm cổ phần tại công ty chứng khoán, một phần vốn chủ sở hữu được chuyển sang pháp nhân này, tạo thêm một “bảng cân đối thứ hai”. Hai pháp nhân này tuy độc lập nhưng cùng dựa trên một khối vốn chủ hợp nhất và cùng gắn với hoạt động trên thị trường vốn.
Trong 27 ngân hàng niêm yết, gần 10 ngân hàng nắm quyền chi phối và hợp nhất công ty chứng khoán như công ty con; một số ngân hàng còn lại sở hữu tỷ lệ không chi phối và ghi nhận khoản đầu tư tài chính. Một số trường hợp thiết lập quyền chi phối gián tiếp thông qua tập đoàn mẹ hoặc cổ đông lớn của hệ sinh thái.
Tỷ lệ sở hữu công ty chứng khoán của các ngân hàng niêm yết (tính đến ngày 30/09/2025). Nguồn: Tác giả tổng hợp từ báo cáo tài chính hợp nhất quý III/2025 của các NHTM.Theo quy định, ngân hàng chỉ được cho vay liên quan đến đầu tư – kinh doanh chứng khoán tối đa 5% vốn điều lệ. Trong khi đó, công ty chứng khoán được cho vay ký quỹ tối đa 200% vốn chủ sở hữu; dư nợ một khách hàng tối đa 3% và dư nợ một mã tối đa 10% vốn chủ sở hữu. Khi ngân hàng góp vốn, vốn chủ sở hữu của công ty chứng khoán tăng lên, kéo theo room cho vay ký quỹ tăng theo, vượt xa giới hạn 5% nếu cho vay trực tiếp từ ngân hàng.
Năm 2025, khi dư nợ ký quỹ tăng mạnh, nhiều ngân hàng mở rộng sự hiện diện trên thị trường chứng khoán qua góp vốn, mua lại công ty chứng khoán hoặc công ty quản lý quỹ và tăng vốn cho các đơn vị liên quan. Trong mùa đại hội cổ đông, Sacombank, SeABank, MSB, OCB và PGBank đều trình và được thông qua các chủ trương đầu tư vào lĩnh vực này.
Sacombank được phép đầu tư tối đa 1.500 tỷ đồng để nắm quyền chi phối một công ty chứng khoán. SeABank nối lại kế hoạch mua 100% Asean Securities đã được thông qua từ 2024. MSB tìm kiếm một công ty chứng khoán hoặc công ty quản lý quỹ có vốn 300–500 tỷ đồng; gần đây Chứng khoán Stanley Brothers cũng được thâu tóm thông qua nhóm cổ đông lớn liên quan đến Rox Group, cổ đông lớn của MSB.
Mạng lưới công ty chứng khoán gắn với ngân hàng đã hình thành nhiều năm. VPBank trở lại mảng này từ năm 2022 khi mua lại ASC và đổi tên thành VPBankS. HDBank sở hữu 30% chứng khoán HDS. TPBank có kế hoạch tăng sở hữu tại TPS từ 9% lên 51% và vừa được NHNN chấp thuận. LPBank nắm tỷ lệ đáng kể tại LPBS…
Trên nền tảng sở hữu đó, nhiều công ty chứng khoán đẩy mạnh tăng vốn quy mô lớn. VPBankS IPO bán 375 triệu cổ phiếu, nâng vốn điều lệ lên 18.750 tỷ đồng. TCBS IPO huy động khoảng 10.800 tỷ đồng, nâng vốn lên hơn 20.800 tỷ đồng. LPBS phát hành 878 triệu cổ phiếu, đưa vốn từ 3.888 tỷ đồng lên 12.588 tỷ đồng. Một số công ty khác như HDBS cũng đặt mục tiêu tăng thêm vài nghìn tỷ đồng.
Theo VIS Rating, ba năm gần đây, nhóm công ty chứng khoán có liên quan ngân hàng tư nhân tăng vốn nhanh nhất thị trường. Riêng năm 2022, dòng vốn bổ sung cho toàn ngành vượt 45.000 tỷ đồng, trong đó nhóm này chiếm gần một nửa.
Dữ liệu VDSC cho thấy dư nợ ký quỹ tập trung mạnh vào nhóm công ty chứng khoán có ngân hàng đứng sau. Thị phần margin của nhóm này tăng từ dưới 40% lên gần 60% trong 5 năm, chủ yếu dịch chuyển từ nhóm công ty chứng khoán nước ngoài.
Trong 20 công ty chứng khoán có dư nợ margin lớn nhất, 11 đơn vị thuộc nhóm có ngân hàng hỗ trợ. MBS và VCBS đã tiệm cận hoặc vượt ngưỡng 2 lần vốn chủ sở hữu; HSC, KIS và Mirae Asset tiến gần giới hạn và cần tăng vốn nếu muốn mở rộng dư nợ. Khi ngân hàng tăng vốn cho công ty chứng khoán con, room margin được mở rộng tương ứng.
Trên báo cáo hợp nhất, mối liên kết này thể hiện rõ qua lợi nhuận. Trong quý gần nhất, NIM của các ngân hàng niêm yết giảm xuống dưới 3%, trong khi hoạt động của công ty chứng khoán con bù đắp đáng kể. Năm 2024, TCBS đóng góp gần 18% lợi nhuận hợp nhất của Techcombank; VPBankS đóng góp khoảng 26% lợi nhuận sau thuế của VPBank. Các công ty như TPS, ACBS, HDBS và MBS cũng có mức đóng góp đáng kể.
Về vận hành, mạng lưới chi nhánh và tệp khách hàng của ngân hàng mẹ là nguồn cung lớn cho các sản phẩm đầu tư và dịch vụ chứng khoán. Hạ tầng số của ngân hàng giúp công ty chứng khoán mở rộng giao dịch, quản lý danh mục và phân tích dữ liệu, qua đó tăng quy mô cho vay ký quỹ. Từ tháng 5, hệ thống KRX và cơ chế non-pre-funding làm tăng nhu cầu hạn mức thanh toán và bảo lãnh tại các công ty chứng khoán do ngân hàng cấp.
Dòng vốn của ngân hàng và công ty chứng khoán có thời điểm cùng đổ vào các ngành như bất động sản và năng lượng tái tạo thông qua cho vay, đầu tư trái phiếu doanh nghiệp và ký quỹ. Giai đoạn 2021–2022, khi thị trường trái phiếu doanh nghiệp kém thanh khoản, nhiều ngân hàng phải xử lý lại danh mục và các khoản cho vay liên quan.