Chính sách khởi xướng từ năm 2018 theo Nghị quyết số 13/NQ-CP, sau đó được Chính phủ tiếp tục kéo dài và hoàn thiện khung thực hiện qua Nghị quyết 59/NQ-CP (ban hành năm 2022), cho phép thực hiện thí điểm theo hình thức hợp tác trực tiếp giữa các địa phương Việt Nam và Hàn Quốc. Quyết định này nhằm đáp ứng nhu cầu thiếu hụt lao động nông nghiệp ở Hàn Quốc đồng thời tạo cơ hội việc làm hợp pháp cho người lao động Việt Nam.
Theo báo cáo sơ kết, từ khi thực hiện chương trình đến nay đã có 10.011 lượt lao động Việt Nam được phái cử sang Hàn Quốc, tập trung ở một số địa phương đi đầu như Ninh Bình (hơn 3.100 người), Đà Nẵng (hơn 2.300) và Đồng Tháp (gần 1.500). Người lao động chủ yếu làm việc ở các vùng nông nghiệp như Jeollabuk, Gyeongsangbuk và Gangwon, đảm nhiệm công việc trồng trọt, thu hoạch và nuôi trồng thủy sản.

Về thu nhập, phần lớn lao động thời vụ Việt Nam ở Hàn Quốc đạt mức thu nhập sau trừ chi phí ăn ở vào khoảng 30-47 triệu đồng/tháng. Một số trường hợp cao hơn, tiếp cận mức gần 50 triệu đồng/tháng khi các điều kiện công việc như giờ làm và phụ cấp thuận lợi. Sau 5-8 tháng làm việc, nhiều người có thể tích lũy được từ 150-320 triệu đồng, nguồn kiều hối góp phần đáng kể vào phát triển địa phương.
Nhu cầu tuyển dụng từ phía Hàn Quốc cũng đang tăng mạnh. Trong năm 2025, Chính phủ nước này quyết định bổ sung khoảng 22.731 chỉ tiêu trong đợt hai, nâng tổng hạn ngạch lao động thời vụ nước ngoài lên 95.700 người, tăng 41% so với năm trước. Điều này mở ra cơ hội lớn cho nguồn cung lao động từ Việt Nam.
Tuy nhiên, chi phí xuất cảnh cho một lao động được ghi nhận dao động 20–60 triệu đồng, bao gồm hộ chiếu, visa, khám sức khỏe, vé máy bay và khóa đào tạo. Nhiều địa phương phải hỗ trợ vay ưu đãi để giúp người lao động bớt gánh nặng tài chính.

Đồng thời chương trình vẫn gặp những vấn đề thực tế. Có địa phương tuyển chọn chưa đúng đối tượng dẫn đến tình trạng bỏ hợp đồng hoặc làm việc trái phép, một số chủ sử dụng chậm trả lương hoặc điều kiện ăn ở chưa bảo đảm, năng lực tiếng Hàn hạn chế cũng khiến người lao động khó hòa nhập. Các con số vi phạm ở một vài tỉnh được báo cáo (ví dụ Hưng Yên, Quảng Trị, Cần Thơ, Đồng Tháp, Ninh Bình) khiến công tác quản lý phải thắt chặt hơn.
Trên cơ sở đó, Cục Quản lý Lao động ngoài nước và các địa phương đã kiến nghị Nhà nước tiếp tục thể chế hóa mô hình “hợp tác lao động thời vụ địa phương – địa phương” trong Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài (sửa đổi); ban hành mẫu MOU thống nhất, quy định trần chi phí, cơ chế xử lý tiền ký quỹ, chuẩn hóa chương trình đào tạo tiếng Hàn và giáo dục định hướng bắt buộc. Đồng thời phía Việt Nam đề nghị Hàn Quốc tăng cường bảo vệ quyền lợi và xử lý nghiêm chủ sử dụng vi phạm.