Xe thế chấp ngân hàng bị công an tịch thu do vi phạm luật giao thông: Ngân hàng “khóc ròng” vì đột nhiên mất tài sản bảo đảm

Hiệp hội Ngân hàng đề xuất sửa đổi quy định về hoàn trả vật chứng theo hướng vật chứng là tài sản bảo đảm của tổ chức tín dụng thì sẽ được hoàn trả lại cho tổ chức tín dụng nếu lỗi vi phạm không thuộc trách nhiệm/ngoài tầm kiểm soát của tổ chức tín dụng.

Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam mới đây có văn bản gửi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam báo cáo, kiến nghị tháo gỡ nhiều vấn đề vướng mắc, khó khăn liên quan đến việc xử lý tài sản bảo đảm, xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng hội viên.

Theo Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA), nhiều ngân hàng hiện nay gặp khó khăn trong việc tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự, vụ việc vi phạm hành chính.

Cụ thể, trên thực tế xảy ra nhiều vụ việc tài sản bảo đảm là phương tiện vận tải bị cơ quan công an tịch thu, tạm giữ do là tang vật trong vụ việc hình sự, vi phạm bị xử lý hành chính hoặc do vi phạm luật giao thông đường bộ.

Theo đó, các cơ quan nhà nước không hoàn trả các tài sản bảo đảm này cho tổ chức tín dụng do chưa có văn bản pháp luật quy định về nội dung này. Trong trường hợp này, cơ quan có thẩm quyền (CQCTQ) thực hiện theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính như xử lý bán đấu giá tài sản bảo đảm là tang vật của vụ án hành chính theo quyết định xử lý vi phạm hành chính, số tiền thu được từ việc xử lý tài sản này sẽ được sử dụng theo quy định của pháp luật mà không chuyển cho tổ chức tín dụng.

Như vậy, việc xử lý tài sản bảo đảm là tang vật trong vụ việc vi phạm hành chính đã gây thiệt hại cho tổ chức tín dụng (tổ chức tín dụng bị mất tài sản bảo đảm).

Hiệp hội Ngân hàng đề xuất sửa đổi quy định về hoàn trả vật chứng theo hướng vật chứng là tài sản bảo đảm của tổ chức tín dụng thì sẽ được hoàn trả lại cho tổ chức tín dụng nếu lỗi vi phạm không thuộc trách nhiệm/ngoài tầm kiểm soát của tổ chức tín dụng.

Ngoài ra, Hiệp hội cũng nêu ra nhiều vướng mắc khác. Chẳng hạn như việc thu giữ tài sản bảo đảm sau khi Nghị quyết 42 (NQ 42) hết hiệu lực rất khó khăn. Sau khi Nghị quyết 42 hết hiệu lực kể từ ngày 01/01/2024 và quy định về thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng không được luật hóa đưa vào Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024, do đó các tổ chức tín dụng chỉ có thể áp dụng cơ chế khởi kiện ra tòa án, gây khó khăn, chậm trễ, tăng chi phí cho các tổ chức tín dụng trong hoạt động xử lý tài sản bảo đảm. Ngoài ra, trên thực tế, nhiều khách hàng biết tổ chức tín dụng không có quyền thu giữ tài sản bảo đảm của tổ chức tín dụng đã hết hiệu lực, cố tình chây ỳ và bất hợp tác với ngân hàng trong việc xử lý tài sản bảo đảm, vì vậy, việc xử lý tài sản bảo đảm của các tổ chức tín dụng càng khó khăn hơn.

Về việc đăng ký thay đổi bên nhận bảo đảm sau khi tổ chức tín dụng bán khoản nợ xấu: Đối với tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, khi bên mua nợ nộp hồ sơ đăng ký thay đổi bên nhận bảo đảm (từ tổ chức tín dụng thành bên mua nợ) tại Cơ quan đăng ký đất đai (ĐKĐĐ) có trường hợp Cơ quan ĐKĐĐ yêu cầu Hợp đồng mua bán nợ phải được công chứng với lý do Hợp đồng mua bán nợ là căn cứ pháp lý về sửa đổi Hợp đồng thế chấp nên cũng phải được công chứng như Hợp đồng thế chấp. Trong khi đó, Thông tư số 09/2015/TT-NHNN không có quy định Hợp đồng mua bán nợ phải được công chứng. Hơn nữa, các bên đã ký kết và thực hiện xong Hợp đồng mua bán nợ, quyền sở hữu khoản nợ đã được chuyển giao cho bên mua nợ nên các bên cũng không thể công chứng lại Hợp đồng mua bán, dẫn đến bên mua nợ không đáp ứng được yêu cầu về hồ sơ của Cơ quan ĐKĐĐ và không được chứng nhận đăng ký thay đổi bên nhận bảo đảm, tiềm ẩn rủi ro bên mua nợ có thể yêu cầu hủy Hợp đồng mua bán nợ.

Hiệp hội cũng nêu ra nhiều khó khăn trong việc nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế nghĩa vụ trả nợ, về việc xử lý tài sản bảo đảm là tài sản thuộc Dự án đầu tư,…

Các ngân hàng cũng muốn có hướng dẫn rõ hơn về quy định “nắm giữ” bất động sản do xử lý nợ. Cụ thể, theo Điều 139 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024, tổ chức tín dụng được quyền “nắm giữ” bất động sản do xử lý nợ. Tuy nhiên, trong Luật Các tổ chức tín dụng hay các văn bản pháp luật khác chưa làm rõ được khái niệm thế nào là “nắm giữ bất động sản”.

Thêm nữa, thời điểm để xác định “ngày quyết định xử lý tài sản bảo đảm là bất động sản” chưa có quy định hướng dẫn được xác định từ thời điểm nào? (là thời điểm tổ chức tín dụng ra quyết định xử lý tài sản bảo đảm hay kể từ thời điểm có bản án/quyết định của Tòa án về việc tổ chức tín dụng được quyền xử lý tài sản bảo đảm hay là thời điểm Thi hành án có quyết định giao tài sản bảo đảm cho tổ chức tín dụng để thay thế nghĩa vụ trả nợ của khách hàng (trường hợp bán đấu giá tài sản không thành từ sau hai lần giảm giá – Điều 104 Luật Thi hành án dân sự (THADS)).

Lan Anh