Thủ tục chồng chéo, xác nhận đối tượng chưa thống nhất
Tại Hội nghị với các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp về giải pháp phát triển đột phá nhà ở xã hội do Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì sáng 24/10, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Nguyễn Thị Hồng, cho hay NHNN đang phối hợp với các bộ, ngành liên quan rà soát, đánh giá nhu cầu nhà ở xã hội theo 3 nhóm chính gồm nhu cầu mua, thuê mua và thuê nhà. Đây là bước nền tảng để hoạch định chính sách hỗ trợ tài chính phù hợp với từng nhóm đối tượng, tránh dàn trải và thiếu hiệu quả.
“Có người thu nhập thấp thường chỉ có khả năng thuê nhà, thay vì mua hoặc thuê mua. Vì vậy, chính sách hỗ trợ cần tập trung nhiều hơn vào phân khúc thuê, với lãi suất và thời hạn vay linh hoạt, phù hợp khả năng chi trả”, Thống đốc nêu ví dụ.
Bà cho rằng, việc xác định rõ mức độ hỗ trợ khả thi là yêu cầu quan trọng để Chính phủ có cơ sở cân đối nguồn lực, ưu tiên cho đúng nhóm người dân cần trợ giúp. Chính phủ và Thủ tướng đã chỉ đạo quyết liệt việc hỗ trợ tài chính thông qua chính sách ưu đãi lãi suất, song việc thực thi cần được tính toán kỹ lưỡng, đồng bộ và khả thi.
Theo Thống đốc, vấn đề của nhà ở xã hội nhiều năm qua không nằm ở chủ trương hay chính sách, mà ở nút thắt thực thi. “Nếu chỉ bàn về đối tượng, quyền mua bán mà không giải quyết được nguồn cung, thì nghị quyết vẫn sẽ thiếu trọng tâm. Mục tiêu phải là phát triển nguồn cung nhà ở xã hội,” bà nhấn mạnh.
Trong dự thảo Nghị quyết mới, các giải pháp then chốt như bố trí quỹ đất, công khai danh mục dự án, chấp thuận chủ trương đầu tư và cải cách thủ tục hành chính đã được đề ra. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là cách triển khai ở các cấp thực thi, nơi đang diễn ra tình trạng chậm trễ kéo dài.
“Chính sách tốt đến đâu cũng vô nghĩa nếu thủ tục vẫn kéo dài 10–15 năm. Doanh nghiệp phải gánh chi phí lãi vay tăng cao, ngân hàng phải trả lãi huy động cho người dân trong khi dự án chưa thể giải ngân. Nếu thủ tục được rút ngắn còn 2–3 năm, dòng vốn sẽ quay vòng nhanh, giúp nhiều dự án sớm tiếp cận tín dụng,” Thống đốc phân tích.
Một vướng mắc lớn khác là quy trình xác nhận đối tượng đủ điều kiện vay vốn mua hoặc thuê nhà ở xã hội. Các ngân hàng cần hồ sơ xác nhận rõ ràng để xét duyệt cho vay, song nhiều địa phương chưa có quy trình thống nhất, khiến người dân và doanh nghiệp mất nhiều thời gian hoàn thiện hồ sơ.
Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho rằng, cần chuẩn hóa và số hóa quy trình xác nhận đối tượng để tránh tình trạng chồng chéo, đồng thời rút ngắn thời gian xét duyệt nhằm đẩy nhanh tiến độ tiếp cận vốn.
Thống đốc Nguyễn Thị Hồng phát biểu tại Hội nghị (Ảnh: SBV).145.000 tỷ đồng vốn rót sẵn, vướng ở danh mục địa phương
Liên quan đến nguồn vốn, Thống đốc cho biết, Nghị quyết mới đã giao NHNN chỉ đạo các ngân hàng thương mại tham gia gói tín dụng nhà ở xã hội trị giá 120.000 tỷ đồng, hiện đã tăng lên 145.000 tỷ đồng.
“Đây là nguồn vốn do các ngân hàng huy động từ người dân. Phần lãi suất ưu đãi trong giai đoạn đầu cũng được các ngân hàng chủ động cân đối từ nguồn lực tài chính của mình. Nguồn vốn cho vay hiện hoàn toàn sẵn sàng,” Thống đốc khẳng định.
Tuy nhiên, tiến độ giải ngân hiện phụ thuộc lớn vào việc công khai danh mục dự án đủ điều kiện vay vốn từ phía các địa phương. Nhiều doanh nghiệp vẫn vướng ở khâu giao đất, phê duyệt thủ tục đầu tư, dẫn tới chưa thể triển khai và phát sinh nhu cầu vay vốn.
“Khi danh mục dự án được phê duyệt rõ ràng và thủ tục được tháo gỡ, tiến độ giải ngân chắc chắn sẽ cải thiện mạnh,” bà Hồng nhấn mạnh.
Bên cạnh tín dụng ngân hàng, Thống đốc cũng nhấn mạnh vai trò của Ngân hàng Chính sách xã hội trong cho vay người mua hoặc thuê mua nhà ở xã hội. Tuy nhiên, bà lưu ý rằng các khoản vay dài hạn trong khi nguồn huy động chủ yếu ngắn hạn có thể gây rủi ro thanh khoản. Vì vậy, cần có nguồn vốn bổ sung từ ngân sách hoặc phát hành trái phiếu Chính phủ bảo lãnh để bảo đảm tính ổn định cho dòng vốn dài hạn.
Ngoài ra, NHNN và các chuyên gia cùng đề xuất đa dạng hóa nguồn vốn xã hội hóa, cho phép doanh nghiệp phát triển nhà ở xã hội huy động vốn qua thị trường chứng khoán. Do tính chất đặc thù của loại hình này, cần xem xét cơ chế bảo lãnh phát hành trái phiếu bởi Nhà nước hoặc chính quyền địa phương nhằm tạo niềm tin cho nhà đầu tư, giúp doanh nghiệp có thêm kênh huy động trung dài hạn.