Chiều 15/10, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức tọa đàm về việc thành lập Sàn giao dịch vàng quốc gia.
Phát biểu tại sự kiện, Phó Thống đốc NHNN Phạm Tiến Dũng cho biết, buổi tọa đàm được tổ chức nhằm trao đổi toàn diện và thực chất về cơ chế, chính sách liên quan đến việc hình thành sàn giao dịch vàng (SGDV). Đây cũng là dịp để các chuyên gia thảo luận về mô hình, cơ chế hoạt động, kinh nghiệm quốc tế, cũng như các vấn đề kỹ thuật quan trọng như lưu ký, kiểm định, thanh quyết toán và ứng dụng công nghệ trong vận hành sàn.
Theo Phó Thống đốc, việc xem xét thành lập Sàn giao dịch vàng quốc gia nhằm mục tiêu khơi thông nguồn vàng trong dân, minh bạch hóa hoạt động mua bán vàng, hạn chế tình trạng giao dịch tự do ngoài kiểm soát và tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước đối với thị trường vàng.
Tại tọa đàm, nhiều chuyên gia nhận định Việt Nam là một trong những quốc gia có mức độ tích trữ vàng vật chất cao, thể hiện rõ qua thói quen đầu tư và nắm giữ vàng như một tài sản an toàn trong nhiều thập kỷ. Tuy nhiên, trong khi nhu cầu nắm giữ và tiêu dùng vàng của người dân lớn, Việt Nam lại không tự sản xuất được vàng, khiến mọi nhu cầu trong nước đều phải phụ thuộc vào nhập khẩu và tiêu tốn lượng ngoại tệ đáng kể.
Ông Đào Xuân Tuấn - Cục trưởng Cục Quản lý ngoại hối, NHNN nhấn mạnh rằng thách thức đặt ra là làm sao cân đối giữa nhu cầu nắm giữ vàng hợp pháp của người dân với mục tiêu ổn định tỷ giá và đảm bảo an toàn hệ thống tài chính - tiền tệ quốc gia.
Theo ông Tuấn, thời gian qua NHNN đã tham vấn ý kiến chuyên gia và thành viên thị trường về ba phương án: thành lập Sàn giao dịch vàng quốc gia độc lập; cho phép giao dịch vàng trên Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam và thiết lập sàn trong khuôn khổ Trung tâm tài chính quốc tế. Kết quả tham vấn cho thấy đa số ý kiến ủng hộ phương án xây dựng Sàn giao dịch vàng quốc gia độc lập.
Lãnh đạo Cục Quản lý ngoại hối cho biết mô hình sàn giao dịch vàng hướng tới ba mục tiêu chính.
Ngắn hạn: Thành lập sàn giao dịch vàng vật chất, đóng vai trò là kênh phân phối vàng nguyên liệu nhập khẩu cho các doanh nghiệp được cấp phép, bảo đảm công khai và minh bạch trong giao dịch.
Trung hạn: Triển khai các sản phẩm giao dịch vàng tài khoản và công cụ phái sinh, theo lộ trình phù hợp với diễn biến thị trường và năng lực quản lý.
Dài hạn: Hạn chế tình trạng nắm giữ vàng vật chất trong dân, chuyển hóa nguồn lực vàng thành vốn phục vụ sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế thực.
Quy trình vận hành sàn giao dịch vàng quốc gia sẽ bao gồm 8 bước chính: cấp phép hoạt động, đăng ký giao dịch, ký quỹ, đặt lệnh, giao nhận vàng vật chất, thanh toán, lưu trữ dữ liệu và giám sát kiểm tra.
Ông Đào Xuân Tuấn cho biết lộ trình triển khai chia thành ba giai đoạn.
Giai đoạn 1: Chỉ giao dịch vàng nguyên liệu nhập khẩu.
Giai đoạn 2: Mở rộng thêm vàng miếng.
Giai đoạn 3: Bao gồm cả vàng đang lưu thông trong nước, chứng chỉ vàng và công cụ phái sinh.
Trong giai đoạn đầu, sàn giao dịch vàng sẽ chỉ hoạt động trong phạm vi nội địa, chưa kết nối với các sàn giao dịch vàng quốc tế.
Đồng thời, ở giai đoạn khởi động (chủ yếu giao dịch vàng nguyên liệu nhập khẩu), các bên tham gia sàn giao dịch vàng bao gồm: Tổ chức cung cấp dịch vụ sàn giao dịch vàng; ngân hàng thanh toán (chuyển tiền, quản lý tài khoản ký quỹ, đối soát) và các thành viên giao dịch gồm ngân hàng, doanh nghiệp được cấp phép nhập khẩu.
Tại tọa đàm, các chuyên gia đánh giá việc thành lập Sàn giao dịch vàng quốc gia hiện đang nhận được nhiều điều kiện thuận lợi. Trước hết, hành lang pháp lý từng bước được hoàn thiện, trong đó Nghị định 232 sửa đổi một số điều của Nghị định 24 về Quản lý thị trường vàng cho phép Ngân hàng Nhà nước cấp phép nhập khẩu vàng cho ngân hàng thương mại và doanh nghiệp đủ điều kiện – tạo nền tảng pháp lý quan trọng để kiểm soát và minh bạch hóa các giao dịch vàng trong nền kinh tế.
Bên cạnh đó, tiến bộ trong thử nghiệm tài chính như mô hình sandbox và định hướng phát triển Trung tâm tài chính quốc tế cũng tạo môi trường thuận lợi để triển khai mô hình sàn giao dịch vàng. Một số ngân hàng lớn trong nước đã có kinh nghiệm vận hành sàn giao dịch chứng khoán và hàng hóa, có thể tận dụng làm nền tảng vận hành.
Ngoài ra, Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia đã triển khai hiệu quả như Trung Quốc (SGE), Ấn Độ (IIBX) và Singapore (SBMA).
Tuy vậy, nhiều thách thức vẫn hiện hữu. Việt Nam là quốc gia có nhu cầu sử dụng vàng ở quy mô lớn, với tâm lý tích trữ vàng sâu rộng trong dân, gây khó khăn trong quản lý. Thêm vào đó, hiện Việt Nam chưa có hệ thống kho lưu trữ vàng tập trung và hệ thống kiểm định chuyên biệt, gây trở ngại cho việc vận hành sàn giao dịch hiệu quả.