Loài cá từng bị coi là món quê nghèo, nay khiến cả thế giới săn đón và giúp nông dân Việt thu 400 triệu đồng mỗi năm

Từ lâu, lươn đã được xem là món ăn bổ dưỡng, có giá trị cao cả về ẩm thực lẫn y học. Theo y học cổ truyền, thịt lươn có vị ngọt, tính ôn, giúp bổ khí huyết, điều hòa đường huyết và tăng cường sức khỏe. Khoa học hiện đại cũng chứng minh rằng lươn chứa nhiều sắt, vitamin A và nhóm B, những dưỡng chất quan trọng đối với cơ thể con người.

1(2).jpegMô hình nuôi lươn không bùn trong bể composite đang mở ra một hướng đi hiệu quả và bền vững hơn. Ảnh: Ánh Nguyệt

Không chỉ nổi tiếng trong bữa ăn, lươn Việt Nam còn là sản phẩm xuất khẩu đầy tiềm năng. Theo Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), năm 2023, kim ngạch xuất khẩu lươn đạt 1,7 triệu USD. Chỉ trong 10 tháng đầu năm 2024, con số này đã tăng gần gấp đôi, đạt 2,98 triệu USD (tương đương 670 tấn). Trong đó, Trung Quốc tiêu thụ khoảng 300 tấn, Nhật Bản 50 tấn, Mỹ 38 tấn và Hàn Quốc 33 tấn. Dự báo năm 2025, xuất khẩu lươn của Việt Nam sẽ tiếp tục tăng nhờ sự phát triển của các mô hình nuôi mới.

Nếu trước đây người dân thường nuôi lươn trong ao đất có lớp bùn đáy, dễ phát sinh ô nhiễm và dịch bệnh, thì nay mô hình nuôi lươn không bùn trong bể composite đang mở ra một hướng đi hiệu quả và bền vững hơn.

Mô hình này giúp người nuôi kiểm soát toàn diện các yếu tố môi trường như nhiệt độ, độ pH và chất lượng nước, đồng thời tiết kiệm diện tích và giảm đáng kể lượng chất thải ra môi trường. Việc không sử dụng bùn đáy giúp rút ngắn thời gian nuôi, nâng cao tỷ lệ sống và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Nhờ đó, lươn có kích thước đồng đều, ít bệnh, thịt chắc và thơm, được các thị trường nhập khẩu đánh giá cao.

Hiện giá bán lẻ trong nước dao động từ 3,3 đến 8,6 USD/kg, trong đó lươn nuôi bằng công nghệ không bùn có giá trị cao hơn hẳn. Tại thôn Hoành Sơn (Bắc Ninh), chỉ với khoảng sân hơn 10 m², người dân có thể xây bốn bể xi măng rộng 2 m²/bể, mỗi năm thu hoạch 1,5 đến 2 tấn lươn, mang lại thu nhập hàng trăm triệu đồng.

Ở Cần Thơ, Tổ hợp tác nuôi lươn Chiến Thắng (xã Tân Hòa) được thành lập từ năm 2023 với 11 thành viên, mỗi hộ nuôi từ 20.000 đến 80.000 con. Ông Trần Trung Tri, Tổ trưởng Tổ hợp tác, chia sẻ: “Nuôi lươn không bùn giúp dễ quản lý, tiết kiệm chi phí, giảm ô nhiễm và tạo ra sản phẩm sạch”.

Các hộ trong tổ hợp tác nuôi xoay vòng theo lứa, trung bình mỗi tháng thu khoảng 10.000 con, tương đương 6 vụ mỗi năm. Nhờ áp dụng mô hình mới, lợi nhuận mỗi hộ đạt hơn 400 triệu đồng/năm, góp phần tạo sinh kế ổn định cho người dân địa phương.

Các chuyên gia cho rằng để ngành nuôi lươn Việt Nam phát triển thành sản phẩm chủ lực, cần xây dựng chuỗi liên kết “nuôi - chế biến - xuất khẩu” theo tiêu chuẩn quốc tế. Mô hình nuôi không bùn được xem là yếu tố then chốt, giúp đồng bộ hóa toàn bộ quy trình từ con giống, thức ăn, chăm sóc đến chế biến.

Song song với đó, việc thiết lập hệ thống truy xuất nguồn gốc điện tử là yêu cầu bắt buộc. Khi mỗi con lươn đều có mã QR ghi nhận hành trình từ trại giống đến bàn ăn, người tiêu dùng trong và ngoài nước sẽ thêm tin tưởng vào chất lượng sản phẩm Việt Nam.

Để đạt được điều này, cần đẩy mạnh hợp tác công - tư, có sự tham gia của các tổ chức phát triển như IDH, GIZ cùng các địa phương trọng điểm như An Giang, Cần Thơ, Bạc Liêu. Việc đào tạo nông dân, hỗ trợ chứng nhận quốc tế và đầu tư sản xuất con giống nhân tạo chất lượng cao sẽ giúp ngành lươn chủ động nguồn cung và mở rộng thị trường.

Ngoài các thị trường lớn như Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ và Hàn Quốc, doanh nghiệp Việt cũng nên tìm kiếm cơ hội tại Trung Đông, châu Phi hoặc những khu vực có cộng đồng người Á Đông, nơi lươn được xem là món ăn truyền thống.

Từ “nhân sâm dưới nước” đến “sản phẩm xanh xuất khẩu”, lươn Việt Nam đang dần khẳng định vị thế trên bản đồ nông sản thế giới, vừa giàu giá trị dinh dưỡng, vừa mang lại sinh kế bền vững cho người nông dân.