Philippines vừa ban hành sắc lệnh EO 105, giữ thuế nhập khẩu gạo ở mức 15% đến cuối năm 2025 và thiết lập cơ chế “thuế linh hoạt” áp dụng từ đầu 2026, với phạm vi thuế được điều chỉnh trong biên độ khoảng 15–35% dựa trên diễn biến giá gạo quốc tế. EO 105 cũng thành lập một nhóm liên ngành chịu trách nhiệm theo dõi và đề xuất điều chỉnh thuế nhằm ổn định thị trường nội địa.
Sắc lệnh thuế gạo mới của chính phủ Philippines vấp phải sự phản đối kịch liệt của nông dân trong nước. Ảnh minh họaQuyết định này vấp phải phản ứng mạnh từ các tổ chức đại diện nông dân. Liên đoàn Nông dân Tự do cùng một số nhóm nông dân lớn khác gọi cơ chế “thuế linh hoạt” là thiếu minh bạch và không được tham vấn đầy đủ như quy định của Luật Hiện đại hóa Hải quan và Thuế quan (CMTA). Họ cảnh báo rằng khi giá gạo thế giới giảm, cơ chế sẽ sẵn sàng hạ thuế và có thể khiến thị trường nội địa tràn ngập gạo nhập khẩu rẻ, gây sức ép mạnh lên thu nhập của nông dân. Một số nhóm còn lo ngại về khả năng vướng kiện tại các diễn đàn thương mại quốc tế nếu chính sách bị coi là bảo hộ trá hình.
Là nhà cung cấp gạo lớn cho Philippines, Việt Nam chịu tác động không nhỏ từ quyết định này. Theo số liệu hải quan và báo cáo ngành, trong 10 tháng đầu năm 2025 Việt Nam xuất khẩu khoảng 7,2 triệu tấn gạo, đạt kim ngạch khoảng 3,7 tỷ USD, nhưng giá xuất khẩu bình quân giảm rõ rệt so với cùng kỳ, đẩy doanh thu giảm mạnh so với khối lượng. Trong bối cảnh một số thị trường truyền thống như Philippines và Indonesia thắt chặt nhập khẩu để tăng tự chủ lương thực, áp lực chuyển hướng thị trường càng trở nên cấp thiết cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo Việt.
Trước biến động của thị trường truyền thống, doanh nghiệp xuất khẩu gạo Việt chủ động chuyển sang khai thác thị trường giá trị cao và bắt đầu gặt hái thành công. Ảnh minh họaNhiều doanh nghiệp Việt Nam đã chủ động chuyển sang khai thác thị trường giá trị cao, đẩy mạnh xuất khẩu các giống gạo đặc sản (ví dụ ST25, Japonica), gạo nếp và các sản phẩm chế biến sâu như bún, phở khô sang châu Âu, Nhật Bản, Trung Đông và Úc. Chiến lược này không chỉ tăng giá bán trung bình (một số lô đạt 1.100–1.200 USD/tấn) mà còn giảm tính phụ thuộc vào nhu cầu giá rẻ của các thị trường lân cận.
Một lợi thế then chốt của Việt Nam trong chuyển dịch này là danh mục giống đa dạng. Theo các cơ quan nghiên cứu và báo cáo chuyên ngành, Việt Nam hiện có hơn 1.000 giống lúa, trong đó tỷ lệ giống “mềm / thơm / đặc sản” chiếm phần lớn. Điều này góp phần giúp doanh nghiệp dễ dàng tùy chỉnh sản phẩm theo tiêu chuẩn và khẩu vị thị trường nước ngoài. Ngược lại, ngành lúa gạo Thái Lan đang đối mặt với vấn đề giảm tính cạnh tranh. Số lượng giống ít hơn, chi phí sản xuất tăng và giá lúa nội địa sụt giảm khiến nông dân thua lỗ, làm suy yếu năng lực đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường xuất khẩu.