Lần đầu tiên Việt Nam có quy định khung pháp lý về tài sản số, gồm tài sản mã hóa và tài sản ảo

Luật CNCNS đã lần đầu tiên đưa ra các chính sách khung chung và giao Chính phủ quy định chi tiết nhằm thúc đẩy phát triển trí tuệ nhân tạo (AI) một cách bền vững, an toàn và có trách nhiệm, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Lần đầu tiên Việt Nam có quy định khung pháp lý về tài sản số, gồm tài sản mã hóa và tài sản ảo- Ảnh 1.

Quốc hội thông qua Luật Công nghiệp Công nghệ số (Nguồn: Báo Chính Phủ)

Ngày 14/6, tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV đã chính thức thông qua Luật Công nghiệp Công nghệ số (CNCNS) với 441/445 tán thành (tỷ lệ tán thành 92,26%).

Bộ KH&CN - đơn vị chủ trì xây dựng Luật CNCNS cho biết, với việc thông qua Luật CNCNS, Việt Nam trở thành nước đầu tiên trên thế giới ban hành một bộ luật riêng về lĩnh vực CNCNS.

Luật CNCNS đã kịp thời thể chế hóa được nhiều nội dung quan trọng trong các Nghị quyết số 57-NQ/TW, Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị; đưa ra một số bài toán lớn và các giải pháp để ngành CNCNS trở thành động lực kinh tế chủ đạo với tốc độ tăng trưởng gấp 2-3 lần GDP...

Phát triển và quản lý trí tuệ nhân tạo, tài sản số

Để thúc đẩy phát triển trí tuệ nhân tạo (AI) một cách bền vững, an toàn và có trách nhiệm, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, Luật CNCNS đã lần đầu tiên đưa ra các chính sách khung chung và giao Chính phủ quy định chi tiết. Luật quy định các nguyên tắc lấy con người làm trung tâm, đảm bảo minh bạch, an toàn và không phân biệt đối xử, với yêu cầu các hệ thống AI phải duy trì sự kiểm soát của con người. AI được phân loại thành các nhóm rủi ro cao, tác động lớn và không rủi ro cao, với các hệ thống rủi ro cao phải tuân thủ yêu cầu kỹ thuật nghiêm ngặt và giám sát chặt chẽ...

Ngoài ra, để tận dụng tiềm năng kinh tế to lớn của tài sản số, đồng thời đảm bảo tính minh bạch, an ninh và tuân thủ tiêu chuẩn quốc tế, Luật CNCNS lần đầu tiên đưa ra định nghĩa và quy định khung pháp lý về tài sản số, bao gồm tài sản mã hóa và tài sản ảo, phân loại theo mục đích sử dụng và công nghệ, tạo cơ sở pháp lý rõ ràng. Giao Chính phủ ban hành quy định chi tiết, đảm bảo tính linh hoạt và phù hợp thực tiễn. Những giải pháp này không chỉ thúc đẩy đổi mới sáng tạo mà còn xây dựng nền kinh tế số minh bạch, góp phần nâng cao uy tín quốc gia trên thị trường toàn cầu.

Tăng tỷ trọng Việt Nam trong ngành Công nghiệp Công nghệ số

Luật CNCNS tập trung nâng cao tỷ trọng sản phẩm công nghệ nội địa trong ngành thông qua các giải pháp chiến lược và chính sách hỗ trợ cụ thể. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) được khuyến khích chuyển giao công nghệ và hợp tác với doanh nghiệp trong nước thông qua ưu đãi giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trong nhiều năm nếu đáp ứng yêu cầu này. Doanh nghiệp khởi nghiệp nội địa nhận hỗ trợ 50% kinh phí để mua công nghệ tiên tiến và phát triển mẫu thử, giúp nâng cao năng lực sản xuất sản phẩm "Make in Vietnam".

Lần đầu tiên Việt Nam có quy định khung pháp lý về tài sản số, gồm tài sản mã hóa và tài sản ảo- Ảnh 2.

Các đại biểu Quốc hội bấm nút thông qua Luật Công nghiệp Công nghệ số (Nguồn: Báo Chính Phủ)

Các sản phẩm công nghệ số nội địa được ưu tiên sử dụng trong các dự án ngân sách nhà nước, đảm bảo thị trường đầu ra ổn định và bền vững. Hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) được hưởng ưu đãi tối đa, bao gồm miễn giảm thuế và hỗ trợ tài chính, nhằm thúc đẩy sáng tạo, đổi mới, giúp sản phẩm Việt Nam không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Luật CNCNS đặt mục tiêu đưa doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam vươn ra thị trường quốc tế, gia tăng doanh thu và khẳng định thương hiệu toàn cầu. Chương trình "Make in Vietnam" được quy phạm hóa, triển khai các hoạt động xúc tiến thương mại và hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng thị trường nước ngoài. Sản phẩm công nghệ số nội địa được ưu tiên trong các dự án mua sắm công, tạo nền tảng vững chắc để phát triển thị trường trong nước trước khi vươn ra quốc tế. Các dự án có vốn đầu tư lớn được hưởng ưu đãi giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trong nhiều năm, hỗ trợ tài chính từ Quỹ đầu tư phát triển, và miễn giảm thuế nhập khẩu thiết bị công nghệ cao.

Đặc biệt, Nhà nước xây dựng mạng lưới đại diện CNCNS Việt Nam tại các thị trường trọng điểm, kết hợp với các chương trình hợp tác quốc tế, giúp doanh nghiệp Việt Nam từng bước trở thành các công ty đa quốc gia, cạnh tranh sòng phẳng với các tập đoàn công nghệ lớn trên thế giới.

Nhằm xây dựng một hệ sinh thái doanh nghiệp CNCNS mạnh mẽ với mục tiêu đạt 150.000 doanh nghiệp vào năm 2035, Luật đưa ra các chính sách hỗ trợ toàn diện. Doanh nghiệp vừa và nhỏ được hỗ trợ chi phí đầu tư hạ tầng, đào tạo nhân lực chất lượng cao và ưu tiên tham gia đấu thầu các dự án mua sắm công.