Vùng biển Việt Nam trải dài với hệ sinh thái phong phú, trong đó có nhiều loài thủy hải sản quý hiếm và mang những tên gọi độc đáo. Một trong số đó là cá mãng cầu – loài cá “lạ” cả về hình dáng lẫn tên gọi.
Loài cá có tên của một loại trái cây
Theo tìm hiểu, cá mãng cầu còn được gọi là cá sơn gai, cá hiệp sĩ, cá chiến binh hoặc cá quả dứa. Tên gọi đa dạng xuất phát từ đặc điểm ngoại hình: vảy cá to, màu vàng cam, viền đen, tạo hoa văn trông giống mắt quả dứa hoặc lớp vỏ mãng cầu ta. Trong khi đó, tên “hiệp sĩ” hay “chiến binh” được người châu Âu đặt dựa trên hình ảnh vảy cá tựa áo giáp.
Cá mãng cầu – loài cá “lạ” cả về hình dáng lẫn tên gọiLoài này phân bố ở vùng biển nhiệt đới Ấn Độ – Tây Thái Bình Dương, sống ở độ sâu 2–100 m và thường trú ẩn trong các rạn san hô, bãi đá ngầm có nhiều khe hốc. Chính môi trường sống khó tiếp cận khiến việc khai thác cá mãng cầu không hề dễ dàng, sản lượng hiếm nên giá trị càng cao. Ở Việt Nam, cá xuất hiện chủ yếu tại vùng biển Phú Yên và Khánh Hòa.
Cá mãng cầu có thể chế biến thành nhiều mónCá mãng cầu trưởng thành có chiều dài khoảng 17 cm nhưng trọng lượng trung bình lên tới 3–4 kg, hiếm cá thể nào chỉ 0,5 kg. Thân cá tròn, dẹt, phủ kín lớp vảy lớn, mắt to và miệng chếch xuống dưới. Thịt cá trắng, dai, ngọt, nội tạng cũng ăn được và có hương vị rất riêng.
Loài cá này có thể chế biến thành nhiều món như nướng, chiên, làm gỏi hay nấu lẩu. Tuy nhiên, ngay cả dân biển sành sỏi cũng hiếm khi thấy hoặc ăn thử vì sản lượng cực kỳ hạn chế. Tại một số địa phương ở Phú Yên và Khánh Hòa, cá mãng cầu được bán với số lượng nhỏ, thường phải đặt trước, giá 350.000–400.000 đồng/kg.
Cá dứa – loài cá mang hương lá dứa
Một loài cá khác cũng gắn liền với tên một loại quả là cá dứa – hay còn gọi là cá tra bần, cá tra nghệ (tên khoa học Pangasius kunyit). Nếu trước đây cá dứa ít được biết đến thì nay đã trở thành đặc sản nổi tiếng, được bán rộng rãi nhờ hương vị thơm ngon và mùi thơm thoang thoảng như lá dứa.
Bề ngoài cá dứa khá giống cá tra và cá ba saCá dứa sống trong môi trường nước ngọt và nước lợ, phân bố chủ yếu ở Indonesia, Malaysia, Việt Nam và một số nước châu Á khác. Loài cá này di cư theo mùa, sinh sản ở vùng nước lợ rồi trở về cửa sông khi trưởng thành.
Bề ngoài cá dứa khá giống cá tra và cá ba sa, nhưng có những điểm khác biệt rõ rệt. Cá dứa có ít xương, thịt dày, chỉ có một đường xương sống dễ lọc và đặc biệt không có lớp mỡ dưới da – điều khiến thịt cá thơm, dẻo và ngọt hơn hẳn. Ngược lại, cá tra và ba sa có phần bụng nhiều mỡ, khiến thớ thịt mềm và béo hơn.
Da bụng cá dứa có màu trắng tươi, lưng trắng xanh; vây lưng có 6–7 tia, vây hậu môn gồm 4 tia cứng và 31–34 tia mềm. Thịt cá màu trắng, thớ thịt nhuyễn và xoắn, không hề có mỡ da, tạo cảm giác chắc và thơm tự nhiên.
Thịt cá dứa chắc, thơmCá dứa được chế biến đa dạng: hấp, kho, chiên, nướng, nấu cháo, lẩu, làm salad… Ở miền Tây, nhiều nhà hàng đưa cá dứa vào thực đơn đặc sản. Trên thị trường, giá cá dứa tự nhiên tươi sống vào khoảng 300.000–400.000 đồng/kg; loại một nắng 450.000–700.000 đồng/kg. Cá dứa nuôi có giá mềm hơn, 180.000–190.000 đồng/kg với hàng tươi và khoảng 300.000 đồng/kg với loại một nắng.
Hiện cá dứa tự nhiên ngày càng hiếm, chủ yếu trông chờ “gặp may”. Trong khi đó, cá dứa nuôi đã trở thành nguồn sinh kế ổn định của nhiều hộ dân, với sản lượng dồi dào quanh năm.